Cử nhân Mai Hoàng Lịch
Đơn vị HTSS IVFMD FAMILY, BVĐK Gia Đình, Đà Nẵng
Giới thiệu
Lạc nội mạc tử cung (Endometriosis - EMS) và bệnh cơ tuyến là bệnh mãn tính có tác động trực tiếp đến khả năng sinh sản của phụ nữ. EMS được đặc trưng bởi mô nội mạc tử cung phát triển bên ngoài tử cung, trong khi đó bệnh cơ tuyến được xác định bởi sự xâm nhập của mô nội mạc tử cung vào bên trong nội mạc tử cung. Theo thống kê có khoảng 30-50% phụ nữ vô sinh có nguyên nhân bởi EMS, bên cạnh đó tỷ lệ mắc bệnh cơ tuyến ở nhóm phụ nữ vô sinh khoảng 7,5-24,4%. Đối với những bệnh nhân nữ mắc EMS và bệnh cơ tuyến thì thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilization - IVF) hoặc tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intracytoplasmic sperm injection - ICSI) và sau đó chuyển phôi tươi hoặc chuyển phôi trữ là một lựa chọn hợp lý.
Một nghiên cứu của Bourdon và cộng sự (2018) đã nghiên cứu trên 270 phụ nữ vô sinh mắc EMS và tiến hành IVF/ICSI và kết quả chỉ ra rằng chuyển phôi trữ (Freeze-all embryo transfer - FET) mang lại tỷ lệ mang thai và tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn so với chuyển phôi tươi (Fresh embryo transfer - ET). Tuy nhiên các nghiên cứu trước đó lại cho thấy tỷ lệ thai tương đương ở phụ nữ mắc EMS hoặc bệnh cơ tuyến ở cả hai phương pháp chuyển phôi tươi và trữ. Ngoài ra, Roque và cộng sự (2019) đã tiến hành một nghiên cứu tổng quan hệ thống và phân tích gộp chứng minh rằng chuyển phôi trữ đã cải thiện tỷ lệ trẻ sinh sống so với chuyển phôi tươi, đặc biệt ở những nhóm bệnh nhân đáp ứng quá mức và với những phôi đã tiến hành xét nghiệm di truyền tiền làm tổ.
Đặc điểm của nghiên cứu
Một tìm kiếm có hệ thống các bài báo liên quan trên Pubmed, EMBASE, MEDLINE, Web of science, Google Scholar, China National Knowledge Infrastructure, Wangfang Data Knowledge Service Platform, and China Biomedical Literature Databasa. Các từ khóa được sử dụng bằng tiếng anh để tìm kiếm bao gồm “endometriosis”, “adenomyosis”, “in vitro fertilization/IVF-ET”, “Intracytoplasmic sperm injection/ICSI”, “freeze-all/frozen embryo transfer”, “Fresh Embryo Transfer”, và “pregnancy outcomes”.
Ban đầu có 2465 trích dẫn được tìm thấy trên các cơ sở dữ liệu. Sau khi loại bỏ các bài báo bị trùng lặp thì có 1513 bài trích dẫn được đánh giá dựa trên tiêu đề và tóm tắt. Sau đó 43 bài được lựa chọn để tiến hành đánh giá trên toàn bộ bài nghiên cứu. Trong quá trình kiểm tra thì có 5 bài báo bị loại do nghiên cứu không phù hợp, 24 bài báo bị loại vì thiếu liên quan và 3 bài báo bị loại vì không báo cáo kết quả liên quan. Cuối cùng có 11 bài báo đáp ứng được đầy đủ các tiêu chí và đủ điều kiện để tiến hành phân tích.
Có 5650 bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu, trong đó có 3127 bệnh nhân trong nhóm chuyển phôi trữ và 2523 bệnh nhân trong nhóm chuyển phôi tươi trong chu kỳ IVF/ICSI. Trong số mười một nghiên cứu được lựa chọn có hai nghiên cứu chủ yếu đến bệnh cơ tuyến và chín nghiên cứu còn lại tập trung vào các loại EMS khác nhau. Kết quả chính là tỷ lệ thai lâm sàng, tỷ lệ trẻ sinh sống và kết quả phụ là tỷ lệ sẩy thai, tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ thai ngoài tử cung. Tuy nhiên sẩy thai được định nghĩa khi xảy ra trước 28 tuần và sau khi xác nhận có thai lâm sàng.
Kết quả
Tỷ lệ thai lâm sàng ở nhóm FET cải thiện hơn so với nhóm ET (0R: 1,22; 95% KTC: 1,09, 1,37; p <0,01; I2 = 48%). Trong những phân tích với nhóm nhỏ, kết quả của phụ nữ bị EMS cho thấy tỷ lệ thai lâm sàng ở nhóm FET cao hơn (0R: 1,25; 95% KTC: 1,11, 1,40; p <0,01; I2 = 38%). Tuy nhiên, đối với những bệnh nhân mắc bệnh cơ tuyến thì tỷ lệ thai lâm sàng không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm FET và ET (0R: 0,92; 95% KTC: 0,40, 2,13; p = 0,85; I2 = 79%).
Tỷ lệ trẻ sinh sống tăng đáng kể ở phụ nữ ở nhóm FET so với nhóm ET (OR: 1,29; 95% KTC: 1,14, 1,45; p <0,01; I2 = 38%). Phân tích phân nhóm liên tục cho thấy tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn ở nhóm FET đối với bệnh nhân mắc EMS (OR: 1,31; 95% KTC: 1,15, 1,49; p <0,01; I2 = 32%). Tuy nhiên ở nhóm bệnh nhân mắc bệnh cơ tuyến thì tỷ lệ sống tương tự giữa hai nhóm (OR: 0,98; 95% KTC: 0,44, 2,16; p = 0,95; I2 = 69%).
Tỷ lệ sẩy thai là không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm (OR: 0,92; 95% KTC: 0,58, 1,46; p = 0,73; I2 = 55%). Ở những bệnh nhân mắc bệnh cơ tuyến thì tỷ kệ sẩy thai tương đương nhau giữa hai nhóm FET và ET (OR: 1,06; 95% KTC: 0,38, 2,96; p = 0,92).
Tỷ lệ làm tổ ở nhóm FET cao hơn so với nhóm ET (OR: 1,27; 95% KTC: 1,05, 1,54; p = 0,01; I2 = 62%). Một phân tích độ nhạy được thực hiện để giải quyết sự không đồng nhất đã xác định các phát hiện với kết quả sau khi loại trừ một nghiên cứu của Wang và cộng sự (2018). Dữ liệu liên quan đến tỷ lệ làm tổ ở nhóm bệnh nhân bệnh cơ tuyến còn thiếu.
Tỷ lệ thai ngoài tử cung là tương tự giữa hai nhóm FET và ET (OR: 0,51; 95% KTC: 0,24, 1,07; p = 0,08; I2 = 0%).
Kết luận
Trong IVF/ICSI, phương pháp FET có kết quả thai cao hơn so với nhóm ET ở những đối tượng bệnh nhân mắc EMS. Trong khi đó ở những nhóm bệnh nhân mắc bệnh cơ tuyến thì kết quả thai ở hai nhóm là tương đương nhau. Tuy nhiên các nghiên cứu hiện tại còn nhiều hạn chế cần những nghiên cứu khác nhằm nhấn mạnh kết quả của tổng quan hệ thống và phân tích gộp này.
Tài liệu tham khảo
Han Y, Liu C, Liu D, Wu L, Huang W. Pregnancy outcomes in freeze-all versus fresh embryo transfer cycles of women with adenomyosis and endometriosis: a systemic review and meta-analysis. Front Endocrinol (Lausanne). 2025 May 14;16:1507252. doi: 10.3389/fendo.2025.1507252. PMID: 40438397; PMCID: PMC12116353.












Ngày 9 - 10 . 8 . 2025, Vinpearl Landmark 81 (Số 720A Điện BIên Phủ, ...
Vinpearl Landmark 81, chiều thứ bảy 9 . 8 . 2025 (13:00 - 16:30)
Chủ nhật ngày 21 . 9 . 2025, Caravelle Hotel Saigon, Số 19 - 23 Công ...

Sách ra mắt ngày 11 . 7 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...